Quản lý các khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An

Tóm tắt: Đến năm 2024, Việt Nam có 11 Khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ) được UNESCO công nhận, là quốc gia xếp thứ hai khu vực Đông Nam Á về số lượng các KSQ. Tuy nhiên, việc đón nhận và phát huy danh hiệu Khu sinh quyển (KSQ) tại các tỉnh thành và quốc gia còn rất thụ động. Ngoài việc duy trì hoạt động kỷ niệm hằng năm và xây dựng báo cáo định kỳ 10 năm, các hoạt động then chốt để thực hiện 3 chức năng cơ bản của KSQ là Bảo tồn – Hỗ trợ và Phát triển chưa được các địa phương phát huy. Các báo cáo đánh giá định kỳ 10 năm theo yêu cầu của UNESCO đều được các KSQ và địa phương thực hiện khá tốt. Tuy nhiên, các khuyến nghị từ các báo cáo này trên thực tế chưa được đề xuất một cách rõ ràng để phát huy các điểm mạnh, hạn chế điểm yếu trong sự phát triển bền vững của KSQ tương lai. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên chính là việc đánh giá hiệu quả quản lý, điều phối của KSQ từ cấp quốc gia cho đến địa phương còn theo xu hướng hành chính, các minh chứng khoa học của quá trình đánh giá chưa rõ ràng. Do đó, các khuyến nghị từ báo cáo định kỳ vẫn mang tính thủ tục, trách nhiệm với các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam cũng như UNESCO. Đặc biệt các khuyến nghị này chưa được pháp lý hóa, thể chế hóa nhằm phát huy danh hiệu KSQ trong phát triển toàn diện, bền vững của các địa phương có KSQ. Xuất phát từ thực tế đó, việc xây dựng Khung đánh giá hiệu quả quản lý, điều phối của các KSQ Việt Nam thông qua 6 nội dung quản lý gồm i) Bối cảnh và hiện trạng quản lý; ii) Xây dựng Kế hoạch quản lý của từng KSQ; iii) Quá trình huy động nguồn lực đầu vào cho công tác quản lý; iv) Quy trình quản lý và cơ chế điều phối; v) Sản phẩm đầu ra của quá trình quản lý; và vi) Kết quả/Hiệu ứng của quá trình quản lý. Trong 6 nội dung cơ bản nêu trên, có 22 chỉ tiêu tương ứng và 65 chỉ số cụ thể đã được xây dựng nhằm miêu tả chính xác về bối cảnh, điều kiện, quá trình tiếp nhận, quản lý/điều phối/vận hành hoạt động của từng KSQ với sự tham gia của chính quyền, các nhà khoa học, lực lượng doanh nghiệp, cộng đồng điaị phương và các bên liên quan. Như vậy, việc áp dụng Khung đánh giá hiệu quả quản lý các KSQ Việt Nam trong quá trình xây dụng báo cáo giữa kỳ 5 năm và định kỳ 10 năm cũng như quá trình vận hành, phát huy danh hiệu KSQ của các địa phương và quốc gia sẽ giúp miêu tả chính xác, khách quan về bức tranh 11 KSQ của Việt Nam.

Từ khoá: KDTSQ; Khung đánh giá; Hiệu quả quản lý KSQ; Hiệu quả điều phối KSQ, KSQ Cù Lao Chàm – Hội An.

Xem bài viết gốc tại đây:

Xem toàn văn bài viết: