Một số đặc điểm về quần xã cá bống ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc Khu trự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An

Vùng hạ lưu sông Thu Bồn thuộc địa phận thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, là một phần của Khu dự trữ sinh quyển thế giới (gọi tắt là KSQ) Cù Lao Chàm – Hội An, là nơi có hệ sinh thái phong phú từ hạ nguồn đến vùng cửa sông Cửa Đại. Các tư liệu nghiên cứu gần đây cho thấy khu vực này có sự hiện diện của một số loại sinh cư (habitats) điển hình quan trọng (rong biển, thảm cỏ biển, rừng dừa nước và vùng đáy mềm), là nơi tập trung của nhiều nhóm đối tượng nguồn lợi thủy sản có giá trị, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội địa phương thông qua việc duy trì sinh kế và tạo nguồn thu nhập đáng kể cho cộng đồng [1], [2], trong đó nguồn lợi cá bống đóng vai trò khá quan trọng cả về sản lượng lẫn thu nhập.

Tuy nhiên, theo thông tin tham vấn cộng đồng năm 2015 trong khuôn khổ của Dự án “Điều tra và đề xuất giải pháp quản lý, sử dụng bền vững đối với tài nguyên đa dạng sinh học ở Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An” cho thấy sản lượng khai thác nguồn lợi này nói riêng và nguồn lợi thủy sản nói chung ở khu vực hạ lưu sông Thu Bồn đang có xu hướng giảm dần do áp lực phát triển kinh tế xã hội gây nên các tác động bất lợi như khai thác hủy diệt và quá mức, diện tích sinh cư bị thu hẹp, chất lượng môi trường nước giảm,… Do đó, kết quả nghiên cứu về các đặc điểm của quần xã cá bống như phân bố, mùa vụ sinh sản,… tại khu vực này rất quan trọng, làm cơ sở đề xuất các giải pháp quản lý và khai thác tài nguyên một cách bền vững trong KSQ Cù Lao Chàm – Hội An.

Thành phần loài và phân bố [4]

Kết quả phân tích các mẫu cá bống thu được qua 2 đợt khảo sát (tháng 12/2015 và tháng 6/2016) tại 03 khu vực đặc trưng cho sự thay đổi về phông (gradient) độ mặn tầng đáy, từ rất thấp (< 0,2%o; khu vực phường Thanh Hà) đến trung bình (< 13,3%o; khu vực phường Cẩm Nam) và cao (>18,3%o; khu vực xã Cẩm Thanh) (Lê Thị Vinh và cs., 2016) đã xác định được 14 loài thuộc 8 giống 2 họ cá bống Eleotridae và Gobiidae phân bố dọc vùng hạ lưu sông Thu Bồn, Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. (Bảng 1) (Phụ lục).

Hình 1. Vị trí các điểm thu mẫu cá

Bảng 1. Thành phần loài cá bống vùng hạ lưu sông Thu Bồn.

K: mùa khô; M: mùa mưa

*: Loài bổ sung từ nghiên cứu này.

So với những nghiên cứu trước đây của Vũ Thị Phương Anh và Võ Văn Phú (2010), Nguyen Thanh Nam (2012) và Nguyễn Thị Tường Vi và cs (2015), kết quả nghiên cứu đã bổ sung thêm 4 loài cho khu vực này, trong đó họ cá bống đen có 1 loài (Oxyeleotris urophthalmus) và họ cá bống trắng có 3 loài (Exyrias puntang, Glossogobius fasciato-punctatus và Oligolepis acutipennis).

Kết quả phân tích cũng cho thấy có sự khác biệt về phân bố thành phần loài giữa các khu vực theo mùa trong đó các loài Eleotris fusca, E. melanosoma, Acentrogobius nebulosus và Glossogobius aureus chỉ xuất hiện ở khu vực Cẩm Thanh vào mùa mưa. Đây là nhóm các loài thường hay sống ở vùng cửa sông ngập mặn [4]; loài Exyrias puntang chỉ xuất hiện ở khu vực Thanh Hà vào mùa mưa; loài Oligolepis acutipennis chỉ xuất hiện ở khu vực Thanh Hà vào mùa khô.

Mối quan hệ giữa thành phần loài với các yếu tố môi trường cơ bản và sinh cư [4]

Tại vùng hạ lưu sông Thu Bồn, vào cả 2 mùa mưa và khô, giá trị độ pH và độ muối tăng dần từ Thanh Hà đến Cẩm Thanh. Vào mùa mưa, tại khu vực Thanh Hà và Cẩm Nam hoàn toàn là nước ngọt, riêng tại khu vực Cẩm Thanh nước tầng đáy có độ mặn từ 17,3 – 19,6%o và pH từ 6,24 – 7,98..Vào mùa khô, hầu hết các nơi tại vùng này đều bị nhiễm mặn, độ mặn và pH tăng dần từ đầu vùng hạ lưu (Thanh Hà) tới vùng cửa sông (Cẩm Thanh), độ mặn ở tầng đáy tăng từ 0,25 – 19,3%o, pH tầng đáy tăng từ 7,27 – 7,91. Kết quả đo các yếu tố môi trường cho thấy tại khu vực nghiên cứu có sự thay đổi mạnh về pH và độ mặn theo 2 mùa giữa 3 khu vực thu mẫu. Do đó, 2 yếu tố này có ảnh hưởng lớn đến sự phân bố thành phần loài giữa 3 khu vực thu mẫu.

Bảng 2. Ma trận phân tích CCA

Theo kết quả phân tích mối tương quan (CCA) giữa thành phần loài và độ phong phú của quần xã cá bống với 8 yếu tố môi trường cơ bản và sinh cư (pH, nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa tan, rong-cỏ nước ngọt, dừa nước-cỏ biển, bùn-cát và cát-bùn) cho thấy rằng sự phân bố của cá bống có mối quan hệ mật thiết và chịu sự chi phối của các yếu tố nói trên (p = 0,006 < 0,05), trong đó các yếu tố đóng vai trò chi phối gồm pH, nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa tan, bùn-cát và cát-bùn (Hình 2).

Hình 2. Mối tương quan giữa thành phần loài cá bống với các yếu tố môi trường và sinh cư gồm: pH, nhiệt độ (t), oxy hòa tan (DO), độ mặn (S), rong-cỏ nước ngọt (RC), bùn-cát (BC), cát-bùn (CB), dừa nước-cỏ biển (DC). Butbut: Butis butis, Exypun: Exyrias puntang, Glogiu: Glossogobius giuris, Glofap: Glossogobius fasciato-punctatus, Aceneb: Acentrogobius nebulosus, Oxymar: Oxyeleotris marmorata, Gloaur: Glossogobius aureus, Elemel: Eleotris melanosoma, Oxyten: Oxyeleotris tentacularis, Elefus: Eleotris fusca, Eleoxy: Eleotris oxycephala, Acecan: Acentrogobius caninus, Oxyuro: Oxyeleotris urophthalmus, Oliacu: Oligolepis acutipennis.

Mối quan hệ giữa thành phần loài với các yếu tố môi trường và sinh cư được phân thành 4 nhóm sau:

– Nhóm các loài cá bống ít chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường và sinh cư gồm: Eleotris fusca, E. melanosoma, Oxyeleotris marmorata, Acentrogobius nebulosus, Glossogobius aureus, G. fasciato-punctatus và Oxyurichthys tentacularis.

– Nhóm các loài cá bống chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố là bùn-cát (BC) và oxy hòa tan (DO) gồm: Glossogobius giuris, Exyrias puntang và Butis butis. Tuy nhiên, các loài này chịu sự chi phối mạnh của yếu tố bùn-cát (BC) hơn DO, trong đó loài G. giuris chịu sự chi phối mạnh mẽ nhất bởi yếu tố bùn-cát (BC).

– Nhóm các loài cá bống chịu sự chi phối của yếu tố cát-bùn (CB) gồm: Acentrogobius caninus, Oxyeleotris urophthalmus và Oligolepis acutipennis. Trong đó, loài A.caninus chịu sự chi phối của cát-bùn (CB) hơn hai loài còn lại.

– Nhóm chịu sự chi phối của cả 4 yếu tố gồm pH, nhiệt độ (t), độ mặn (S) và rong-cỏ nước ngọt (RC): ở nhóm này chỉ có một loài duy nhất chịu sự chi phối của cả 4 yếu tố môi trường trên đó là Eleotris oxycephala.

Tuy nhiên, khi phân tích theo từng nhóm yếu tố lại cho thấy chỉ có 4 yếu tố có giá trị Eigenvalue (%) cao và p < 0,05 (gồm pH, DO, độ mặn và rong-cỏ nước ngọt) đóng vai trò quan trọng nhất chi phối sự phân bố của quần xã cá bống trong khu vực nghiên cứu (Bảng 2). Riêng giá trị eigen (Eigenvalue) của yếu tố nhiệt độ tuy cao thứ nhì (22,6%) nhưng giá trị p > 0,05 nên không ảnh hưởng nhiều đến sự phân bố thành phần loài cá bống. Có thể tại khu vực nghiên cứu, nhiệt độ môi trường nước không có sự biến động nhiều giữa các khu vực và giữa 2 mùa nên các loài cá bống ít chịu sự chi phối của yếu tố nhiệt độ.

Đặc điểm sinh sản của loài cá bống cát Glossogobius giuris (Hamilton, 1822) [3]

Tỷ lệ buồng trứng cá bống cát ở giai đoạn IV đạt giá trị cao từ tháng 3 đến tháng 8, cao nhất vào tháng 3 (chiếm 12,5%), trong các tháng 1, 2, 9 và 11 không thấy xuất hiện buồng trứng ở giai đoạn IV hoặc xuất hiện với tỉ lệ rất thấp (1,11%) (Hình 3).

Trong quá trình thu mẫu và phân tích không thấy buồng trứng ở giai đoạn V, có thể đây là giai đoạn cá tham gia sinh sản nên rất khó phát hiện ở giai đoạn này.

Hình 3. Tỷ lệ các GĐTT của buồng trứng cá bống cát ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn

Kết quả thu mẫu và phân tích cho thấy trong tháng 3 và tháng 10 phát hiện được mẫu tinh sào ở giai đoạn IV nhưng chiếm tỷ lệ rất thấp 1,39% và 2,22% (Hình 4).

Hình 4. Tỷ lệ các GĐTT của tinh sào cá bống cát ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn

Như vậy, qua kết quả phân tích có thể dự đoán mùa vụ sinh sản tập trung của cá bống cát diễn ra từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm.

So sánh kết quả phân tích mẫu tuyến sinh dục từ Thanh Hà đến Cẩm Thanh cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thành thục sinh dục giữa 3 khu vực trong cùng thời điểm từ tháng 1 đến tháng 8. Tuy nhiên, kết quả thu mẫu từ tháng 9 đến tháng 11 cho thấy tỷ lệ buồng trứng ở giai đoạn IV tại khu vực Cẩm Thanh cao hơn gấp 2 đến 3 lần hai khu vực còn lại (Cẩm Nam và Thanh Hà), đặc biệt trong tháng 9 và tháng 11 buồng trứng giai đoạn IV chỉ phát hiện ở Cẩm Thanh (chiếm 3,45%) (Hình 5 và Hình 6)

Đối chiếu với các thông số môi trường đo đạc tại 3 khu vực cho thấy vào mùa khô nước cả 3 khu vực đều bị nhiễm mặn, nhưng vào mùa mưa chỉ có khu vực Cẩm Thanh là nước bị nhiễm mặn. Như vậy, sự thành thục sinh dục của cá bống cát thường tập trung ở khu vực có độ mặn cao hơn.

Hình 5. Tỷ lệ buồng trứng cá bống cát giai đoạn IV tại 3 khu vực thu mẫu

Hình 6. Tỷ lệ buồng tinh cá bống cát giai đoạn III & IV tại 3 khu vực thu mẫu

So sánh với kết quả nghiên cứu về sinh sản của cá bống cát của Phạm Thị Mỹ Xuân và Trần Đắc Định (2013) thực hiện ở Cần Thơ cho thấy sự khác biệt về mùa vụ sinh sản giữa hai khu vực. Ở Cần Thơ, cá bống cát thành thục sinh dục và tham gia sinh sản từ tháng 9 đến tháng 10 và giảm dần ở các tháng tiếp theo; trong khi ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn là từ tháng 3 đến tháng 8 và giảm dần ở các tháng tiếp theo. Về phương pháp thực hiện, ở nghiên cứu tại Cần Thơ thời gian thực hiện nghiên cứu chỉ kéo dài từ tháng 9/2011 đến tháng 2/2012, như vậy nhóm tác giả đã chưa nghiên cứu được đặc điểm sinh học của cá trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 trong năm.

Qua 11 tháng thu mẫu phân tích, kết quả nghiên cứu cho thấy cá bống cát có giá trị GSI cao nhất vào tháng 3, tiếp theo là tháng 8 và giảm dần vào các tháng tiếp theo, thấp nhất vào tháng 11. Trong quá trình thu mẫu, ở các tháng 11 đến tháng 2 hầu như chỉ thu được cá bống ở giai đoạn I và II, rất hiếm khi bắt gặp giai đoạn III và gần như không có giai đoạn IV, nên hệ số GSI ở các tháng này rất thấp. Trong tháng 3, các mẫu cá bống ở giai đoạn III và IV thu được chiếm tỷ lệ rất cao (13,9% và 12,5%) nên có hệ số GSI cao nhất (Hình 7). Thông tin tham vấn từ ngư dân khai thác tại khu vực nghiên cứu thì cá bống cát mang trứng thường xuất hiện nhiều vào khoảng tháng 3 đến tháng 7. Do đó có thể nhận định mùa vụ sinh sản của cá bống cát diễn ra từ tháng 3 đến tháng 8 hằng năm.

Hình 7. Hệ số thành thục sinh dục GSI (%) của cá bống cát

Sức sinh sản tuyệt đối của cá bống cát dao động từ 15.555 đến 76.861 trứng/cá thể, trung bình đạt 32.246 ± 18.799 trứng/cá thể. Sức sinh sản tương đối dao động trong khoảng 2.150 – 5.044 trứng/g, trung bình đạt 3.379 ± 877 trứng/g. Dựa vào Hình 8 có thể thấy khối lượng cơ thể cá ảnh hưởng đến sức sinh sản của cá. Mối tương quan giữa hai đại lượng này được thể hiện bằng phương trình F = 6242W – 23778 với hệ số tương quan R2 = 0,9116. Qua phương trình trên cho thấy rằng khi khối lượng thân cá tăng lên thì sức sinh sản tuyệt đối của cá cũng tăng theo.

Hình 8. Tương quan giữa sức sinh sản tuyệt đối và khối lượng cơ thể

Kết luận

Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận được 14 loài cá bống thuộc 8 giống của 2 họ cá bống đen Eleotridae (6 loài) và họ cá bống trắng Gobiidae (8 loài), trong đó có 4 loài (Oxyeleotris urophthalmus, Exyrias puntang, Glossogobius fasciato-punctatus và Oligolepis acutipennis) được bổ sung cho khu hệ cá ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn.

Có sự khác biệt về tính chất phân bố thành phần loài cá bống theo không gian và thời gian, trong đó khu vực nước có độ mặn cao (Cẩm Thanh) có số lượng loài cao hơn so với khu vực có độ mặn trung bình (Cẩm Nam) và độ mặn thấp (Thanh Hà); và mùa mưa cao hơn so với mùa khô.

Sự phân bố của quần xã cá bống có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố môi trường và sinh cư, trong đó pH, oxy hòa tan, độ mặn và độ phủ rong-cỏ nước ngọt là những yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất.

Mùa vụ sinh sản của cá bống cát tập trung từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm với sức sinh sản tuyệt đối dao động trong khoảng 15.555 – 76.861 trứng/cá thể (trung bình: 32.246 ± 18.799 trứng/cá thể) và sức sinh sản tương đối dao động trong khoảng 2.150 – 5.044 trứng/g trọng lượng cá (trung bình: 3.379 ± 877 trứng/g). Hệ số thành thục sinh dục của cá bống cát đạt giá trị cao từ tháng 3 đến tháng 8, cao nhất vào tháng 3 và thấp nhất vào tháng 11.

Trần Thị Phương Thảo – BQL KBTB Cù Lao Chàm

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Hữu Đại, Donald Macintosh, 2008. Hiện trạng tài nguyên đất ngập nước (chủ yếu là dừa nước) ở hạ lưu sông Thu Bồn (Quảng Nam) và vấn đề quản lý, bảo vệ, phục hồi. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, 8: 51-66.

2. Phạm Viết Tích, 2009. Khảo sát, đánh giá và đề xuất các giải pháp bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái đất ngập nước ven biển Quảng Nam. Báo cáo tổng kết đề tài cấp tỉnh lưu trữ tại Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Nam. 160 trang.

3. Trần Thị Phương Thảo, Nguyễn Văn Long, 2017. Đặc điểm sinh sản cá bống cát Glossogobius giuris (Hamilton, 1822) ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 17, Số 4A.

4. Trần Thị Phương Thảo, Nguyễn Văn Long, 2018. Thành phần loài, phân bố và mối quan hệ giữa quần xã cá bống với các yếu tố môi trường và sinh cư ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 18, Số 2; 161-165.

5. Nguyễn Thị Tường Vi, Lê Thị Thu Thảo, Bùi Thị Ngọc Nở, Võ Văn Quang, 2015. Kết quả bước đầu nghiên cứu khu hệ cá cửa sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển, 15(1): 55-60.

6. Phạm Thị Mỹ Xuân và Trần Đắc Định, 2013. Một số đặc điểm sinh sản của cá bống cát Glossogobius giuris (Hamilton, 1822) ở thành phố Cần Thơ. Tạp chí Khoa học trường đại học Cần Thơ, Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ sinh học 27, tr.161-168.

7. Lê Thị Vinh, Phạm Hữu Tâm, Nguyễn Hồng Thu, Võ Trần Tuấn Linh, Lê Trọng Dũng, Võ Hải Thi, Phạm Hồng Ngọc, Lê Hồng Phú, 2016. Chất lượng môi trường nước tại Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm-Hội An, tỉnh Quảng Nam. Tuyển tập Nghiên cứu Biển, 22: 29-37.5.

8. Vũ Thị Phương Anh, Võ Văn Phú, 2010. Thành phần loài cá ở hệ thống sông Thu Bồn-Vu Gia tỉnh Quảng Nam. Tạp chí sinh học, 32 (2): 12-20.

9. Nguyen Thanh Nam, Nguyen Thi Huyen, Nguyen Xuan Huan, 2012. Composition of fish species at Cua Dai estuary, Vu Gia – Thu Bon river system, Quang Nam province. VNU Journal of Science, Natural Sciences and Technology, 28(2S): 25-33.

Phụ lục