Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An nơi hòa quyện giữa con người và thiên nhiên

Ngày 26/5/2009, tại đảo Jeju – Hàn Quốc, Ủy ban điều phối quốc tế chương trình con người và sinh quyển thế giới của UNESCO đã chính thức công nhận Cù Lao Chàm – Hội An trở thành Khu dự trữ sinh quyển thứ 8 của Việt Nam, hòa vào mạng lưới 669 Khu dự trữ sinh quyển của thế giới trên 120 quốc gia. Có thể nói, đây là sự ghi nhận của cộng đồng thế giới về những nỗ lực vượt bậc của thành phố Hội An trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, hướng tới sự phát triển bền vững.

Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm – Hội An là tài sản của địa phương nhưng mang tầm ý nghĩa toàn cầu

Trải dài từ phố cổ Hội An – vùng hạ lưu sông Thu Bồn, qua hệ thống kênh rạch tự nhiên, các bãi biển đến tận hải đảo, Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm – Hội An (KSQ) có đại diện đầy đủ các kiểu hệ hệ sinh thái tự nhiên đặc trưng vùng ven bờ như: Hệ sinh thái (HST) rạn san hô; HST thảm cỏ biển, HST thảm rong biển, HST rừng ngập mặn (chủ yếu là rừng dừa nước); HST vùng cửa sông; HST đất ngập nước; HST vùng triều bờ đá; HST bãi biển, HST rừng thường xanh nhiệt đới…vv. Các HST này được trải dài dọc theo các nhánh sông, vùng ven biển ra đến quần đảo Cù Lao Chàm đã bao bọc lấy Hội An, mang lại cho Hội An sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn, tạo ra các dịch vụ sinh thái, là tiền đề thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội địa phương. Di sản văn hóa Phố cổ Hội An; Di sản văn hóa UNESCO (1999); Rừng đặc dụng trên đảo Cù Lao Chàm; Rừng phòng hộ, rừng ngập mặn Cẩm Thanh, Cửa Đại, Cẩm Kim; Khu Bảo tồn Biển Cù Lao Chàm; Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể …vv là những giá trị độc đáo và đặc trưng nhất của KSQ, đây được coi là tài sản của địa phương nhưng mang tầm ý nghĩa toàn cầu. Theo nhận định của UNESCO, KSQ là một minh chứng điển hình, rõ nét về sự giao thoa, hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, đúng như sự tôn chỉ của UNESCO được thể hiện qua tên gọi Ủy ban Con người và Sinh quyển (Man and Biosphere – MAB).

Hình 1: Cù Lao Chàm – vùng lõi Khu dự trữ sinh quyển thế giới

Những nỗ lực gìn giữ và phát huy giá trị nổi trội của Khu sinh quyển

Với những nổ lực của địa phương và các bên liên quan từ chính quyền, nhà khoa học, các doanh nghiệp và cộng đồng cư dân, sau 10 năm được UNESCO công nhận, KSQ đã cơ bản hình thành bộ máy, cơ chế quản lý và điều phối các hoạt động diễn ra trong phạm vi KSQ theo cách tiếp cận quản lý tổng hợp, đa ngành nghề, đa mục tiêu; tiếp cận hệ sinh thái, lưu vực sông; tiếp cận theo mô hình tư duy hệ thống, qui hoạch cảnh quan, điều phối liên ngành, kinh tế chất lượng (Mô hình SLIQ)…vv nhằm bảo tồn và phát huy tốt các giá trị đặc trưng nổi trội của KSQ đáp ứng sự kỳ vọng của UNESCO.

Hình 2: Mô hình tiếp cận Tư duy hệ thống – Qui hoạch cảnh quan –Điều phối liên ngành và – Kinh tế chất lượng SLIQ (MAB Việt Nam)

Sau 10 năm, những tài sản quí giá nhất của KSQ đã được bảo tồn một cách tích cực, mang lại lợi ích cụ thể thông qua các mô hình sinh kế bền vững của người dân trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Điều này được thể hiện qua sự phân bố, sức khỏe, diễn thế các hệ sinh thái và đa dạng loài cả trên cạn và dưới nước trong KSQ được đánh giá qua gần10 năm:

(1) Diễn thế các hệ sinh thái theo chiều hướng tích cực

Ngoài các hệ sinh thái cơ bản, ít biến động như hệ sinh thái vùng triều bờ đá, vùng triều bờ cát, diễn thế các hệ sinh thái quan trọng trong KSQ sau 10 năm thể hiện một sự thành công lớn trong việc hài hòa giữa bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội trong KSQ:

@ Rừng nguyên sinh Cù Lao Chàm: Năm 2006, rừng đặc dụng Cù Lao Chàm được ghi nhận có nhiều cây gỗ quý, nhiều loài có giá trị khoa học. Từ độ cao 100m trở xuống, đã ghi nhận có 499 loài thuộc 352 chi, 115 họ của 5/6 ngành thực vật bậc cao có mạch, 1/20 tổng số loài, 1/6 tổng số chi và tổng số họ của thực vật Việt Nam. Trong đó có hơn 288 loài cây thuốc nam (Những loài dược liệu quí như Hoàng Nam, cỏ Xước, Bách Lộ, Lạc Tiên, Mã Đề và một số loài trong họ Gừng …vv) xen lẫn trong những cánh rừng thường xanh với những cây cổ thụ như Gõ mật, Lim xanh, Dầu lôn, Chò nâu, Huỷnh, Bời lời đỏ hàng trăm năm tuổi.

Trong gần 10 năm, KSQ luôn tổ chức các nghiên cứu nhằm tiếp tục cập nhật, bổ sung dữ liệu đa dạng sinh học rừng Cù Lao Chàm. Các nghiên cứu đã xác định được rừng Cù Lao Chàm cũng là nơi cư trú của 12 loài thú, 13 loài chim, 130 loài bò sát và 5 loài ếch nhái, nhiều loài quý hiếm như Lan Nhung, Trầm Hương. Đặc biệt, đã phát hiện tại Cù Lao Chàm có nhiều loài trong sách đỏ của Việt Nam và IUCN, riêng năm 2017, Cù Lao Chàm đã bổ sung 01 loài rắn mới vào danh mục của thế giới với tên khoa học Oligodon culaochamensis. Bên cạnh đó, có 6 cây quý ở Hòn Lao, Cù Lao Chàm gồm 3 cây Cây ngô đồng, 1 cây Nánh, 1 cây Kén, 1 cây Đa đã được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là CÂY DI SẢN năm 2014.

@ Rạn san hô: Tính đến năm 2017, có khoảng 356,4 ha diện tích rạn san hô phân bố trong vùng lõi (KBTB Cù Lao Chàm) của KSQ, trong đó rạn ven đảo có 241 ha và rạn ngầm tập trung ở khu vực Rạn Lá, Đông Bắc Hòn Mồ và Rạn Mành ở đô sâu > 20m chiếm 116 ha. So với 311 ha rạn san hô đã được tính toán trong năm 2008, đến năm 2017 bổ sung thêm 46 ha chủ yếu tập trung ở 2 khu vực rạn ngầm (Rạn Lá và Rạn Mành). Nhìn chung, giai đoạn 2004 – 2017, diện tích rạn san hô ở vùng lõi (KBTB Cù Lao Chàm) của KSQ chỉ giảm khoảng 0,8 ha ở khu vực Bãi Hương do bị san lấp và phá hủy bởi công trình cầu tàu.

@ Thảm cỏ biển: Số liệu khảo sát năm 2017, có khoảng 60 ha, trong đó khu vực hạ lưu sông Thu Bồn có 43 ha và Cù Lao Chàm có 17 ha. Ở khu vực hạ lưu sông Thu Bồn, thảm cỏ biển chủ yếu tập trung ven các cồn bãi (Gò Hí) bên ngoài rừng dừa nước ở Cẩm Thanh. Diện tích thảm cỏ biển cũng bị thu hẹp theo thời gian, đáng kể nhất ở khu vực Cù Lao Chàm giảm từ khoảng 50 ha trong năm 2004 xuống 37,1 ha trong năm 2008 và 17 ha vào năm 2016 (giảm 33 ha, tương đương 66%), đặc biệt tại các khu vực Bãi Ông và Bãi Hương gần như bị vùi lấp hoàn toàn và chỉ còn một số đốm nhỏ rãi rác nên không hình thành nên thảm cỏ biển. Ở khu vực hạ lưu sông Thu Bồn giảm tương đối ít từ 44,6 ha trong năm 2004 và 2008 xuống còn 43 ha vào năm 2016, tức chỉ giảm 1,6 ha.

@ Rừng ngập mặn: Có khoảng 117 ha, tập trung chủ yếu ở rừng dừa nước của xã Cẩm Thanh (81,5 ha). Phần diện tích nói trên không gồm khoảng 26 ha rừng dừa nước mới trồng vì chúng chưa được gọi là “rừng”. Kết quả phân tích hồi cố trên cơ sở tư liệu giải đoán ảnh vào các năm 2004, 2008 và 2016 cho thấy có sự suy giảm diện tích rừng dừa nước từ 194,1 ha trong năm 2004 xuống 117,6 ha trong năm 2008 và 117 ha vào năm 2016. Như vậy, diện tích rừng dừa nước ở khu vực hạ lưu sông Thu Bồn mất đi khoảng 77,1 ha (tương đương 40%), chủ yếu diễn ra trong giai đoạn từ 2004 – 2008 và giai đoạn 2008 – 2016 hầu như không thay đổi.

Hình 3: Diễn biến diện tích phân bố dừa nước tại Cẩm Thanh – vùng đệm KSQ (Nguồn KSQ)

Nhìn tổng thể, môi trường và tính đa dạng sinh học của KSQ kể từ lúc được UNESCO công nhận năm 2009 và sau gần 10 năm nỗ lực bảo tồn là không có nhiều thay đổi và có xu hướng phát triển tốt. Trong đó, đáng kể nhất là diện tích rừng dừa nước được phục hồi, trồng mới với diện tích khoảng 26 hecta. Rạn san hô được cộng đồng cùng chung tay bảo tồn và phát triển trên nhiều khu vực. Sự gia tăng phân bố của các hệ sinh thái là điều kiện tốt để duy trì tính đa dạng loài trong các sinh cảnh. Tính đến năm 2017, toàn bộ vùng nước của KSQ có sự hiện diện của 1.667 loài thuộc 455 họ của 11 nhóm sinh vật chủ yếu trong 533,3 ha diện tích các hệ sinh thái tiêu biểu. Quan trọng nhất là đã xác định được vòng đời, các bãi đẻ, bãi ương giống tự nhiên của các loài thủy sản trong mối liên kết sinh thái, liên kết quần thể sinh vật giữa hai trung tâm đa dạng sinh học trong phạm vi Khu sinh quyển đó là vùng cửa sông Thu Bồn và quần đảo Cù Lao Chàm. Đây chính là chìa khóa nhằm bảo tồn hiệu quả tính đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản của KSQ nói riêng và hành lang đa dạng sinh học vùng duyên hải Miền Trung nói chung.

Tuy nhiên, dưới tác động của thiên nhiên và áp lực phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn 2004 – 2016 đã làm thay đổi khá nhiều về chất lượng môi trường và sự tồn tại của các quần xã sinh vật trong Khu sinh quyển. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng rộng khắp từ hệ thống cồn bãi tự nhiên, bùng nổ du lịch, khai thác thủy sản bằng các phương thức có tính hủy diệt, dòng nước ngọt kéo theo trầm tích và ô nhiễm từ lưu vực sông, sinh vật địch hại …vv đã gây ra hiện tượng tẩy trắng san hô (Coral Bleaching) và làm mất đi khoảng 112,5 ha các sinh cảnh quan trọng gồm 77,1 ha dừa nước, 34,6 ha thảm cỏ biển và 0,8 ha rạn san hô, đặc biệt thảm cỏ biển ở Bãi Ông và Bãi Hương hầu như bị biến mất.

(2) Tài nguyên nhân văn được bảo tồn và phát huy

Song hành với việc bảo tồn các giá trị tài thiên nhiên, công tác quản lý, đầu tư tu bổ di tích được quan tâm thực hiện thường xuyên. Bên cạnh đó, các hoạt động bảo tàng, sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, hội thảo khoa học cũng được chú trọng. Đặc biệt là đã triển khai đề tài nghiên cứu khoa học về Địa chí Hội An, xây dựng các hồ sơ đề nghị công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, hồ sơ đề nghị công nhận nghệ nhân ưu tú; tổ chức tốt các cuộc tham vấn, hội thảo khoa học, qua đó góp phần phát huy giá trị di sản văn hóa Đô thị cổ Hội An.

Bên cạnh việc duy trì thường xuyên các lễ hội truyền thống và các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, thành phố cũng đã tập trung chỉ đạo tổ chức định kỳ nhiều sự kiện văn hóa có tầm ảnh hưởng lớn, điển hình như sự kiện Trình diễn ánh sáng nghệ thuật, Những ngày văn hóa Hàn Quốc tại Hội An, Festival Di sản Quảng Nam, Liên hoan ẩm thực Quốc tế, Hội thi Hợp xướng Quốc tế, Giao lưu văn hóa Hội An – Nhật Bản. Đặc biệt là tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Tuần lễ cấp cao APEC tại Hội An trong năm 2017. Phong trào thể dục, thể thao cũng diễn ra sôi nổi với các hoạt động như Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân, Cuộc thi Marathon quốc tế, Festival tơ lụa và thổ cẩm Việt Nam – Thế giới, tổ chức ra mắt bộ sản phẩm nghề gốm “Ấn tượng ẩm thực Hội An” và đang tiến hành việc quy hoạch lại khu làng mộc Kim Bồng để hoạt động hiệu quả hơn.

Tất cả đã làm nên một Hội An giàu có về tài nguyên thiên nhiên, đa sắc màu văn hóa và quan trọng hơn cả là thể hiện rõ nét sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, một giá trị nổi trội toàn cầu mà khó nơi nào có được.

Những thách thức đang ở phía trước

Tài nguyên quan trọng của KSQ chính là giá trị cảnh quan sinh thái, tính đa dạng sinh học và giá trị văn hóa lịch sử của địa phương. Giá trị nổi bậc của KSQ chính là sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Tuy nhiên tài nguyên và những giá trị của KSQ đang đứng trước những khó khăn và thách thức rất lớn:

(i) Vấn đề ô nhiễm: Cảnh quan, các hệ sinh thái và tính đa dạng sinh học tại KSQ đang bị tác động nặng do nguồn nước bị ô nhiễm từ hoạt động dân sinh, các công trình xây dựng và ảnh hưởng từ các dòng hải lưu ven bờ.

(ii) Áp lực từ du khách: Sự gia tăng nhanh chóng số lượng và nhu cầu sử dụng thực phẩm, các dịch vụ hệ sinh thái của khách đến KSQ (đặc biệt là vùng lõi tại quần đảo Cù Lao Chàm và rừng dừa nước tại Cẩm Thanh) đã gây áp lực rất lớn đến môi trường, sức khỏe các hệ sinh thái. Trong lúc cơ sở hạ tầng, năng lực của doanh nghiệp và cộng đồng chưa nâng cao tương ứng thì sự gia tăng đột biến du khách là một thách thức đáng kể đối với môi trường, tài nguyên và các giá trị nổi trội của KSQ.

(iii) Sự bất cập, chưa hòa hợp giữa các mục tiêu chiến lược của thành phố: Quần đảo Cù Lao Chàm được ghi nhận có tính đa dạng sinh học cao cả trên rừng và dưới biển. Các hệ sinh thái và tính đa dạng sinh học ở đây được xác định là có mối liên kết sinh thái rất mật thiết từ đỉnh núi, qua các cánh rừng, đến vùng triều bờ đá/bãi biển cho đến các rạn san hô, thảm cỏ biển dưới đáy đại dương. Tuy nhiên sự liên kết này đang bị cắt đứt bởi các con đường bao quanh đảo cũng như các công trình xây dựng của các doanh nghiệp. Đất đá, chất thải công trình theo dòng chảy tích tụ và gây ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của các rạn san hô và thảm cỏ biển xung quanh đảo. Vùng sinh cư của các loài bị phân cắt về môi trường sống, đường di cư sinh sản và cả chu kỳ vòng đời của chúng. Tại vùng cửa sông, nơi KSQ đang nỗ lực bảo vệ rừng dừa nước và các hệ sinh thái cồn bãi tự nhiên, đây chính là các bãi đẻ, ươm giống của nhiều loài thủy sản và chúng có mối liên kết sinh thái, liên kết quần thể với nguồn lợi thủy sản tại quần đảo Cù Lao Chàm. Tuy nhiên khu vực này cũng đang chịu sức ép vô cùng lớn từ việc đầu tư quá nhiều công trình, cơ sở hạ tầng như cầu Cửa Đại và hệ thống đường dẫn vắt ngang qua trung tâm rừng dừa, nhà máy xử lý nước thải của thành phố, hầu hết các hệ thống cồn bãi tự nhiên trên sông, ven biển đã và đang được đầu tư xây dựng. Thực tế này đã làm mất đi giá trị cảnh quan sinh thái, tính hoang sơ, mất các bãi giống tự nhiên, ảnh hưởng đến dòng chảy, khả năng kiểm soát chất lượng môi trường của rừng dừa, các hệ sinh thái vùng cửa sông, ven biển và nguy cơ cắt đứt mối liên kết sinh thái, liên kết quần thể giữa các vùng chức năng khác nhau trong KSQ và cả lưu vực sông cũng như vùng bờ ven biển duyên hải miền Trung.

(iv) Tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu: Bão tố, lũ lụt, hiện tượng nước biển ấm lên và những tác động khác của biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên và các giá trị của KSQ. Trầm tích kết hợp với hiện tượng ngọt hóa và ô nhiễm toàn lưu vực đã gây ra hiện tượng tấy trắng san hô và làm chết nhiều thảm cỏ biển tại Cù Lao Chàm và khu vực cửa sông Thu Bồn. Hiện tượng sạt lở bờ sông, xói lở bãi biển đang là vấn đề lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và du lịch nói riêng cũng như sinh kế của người dân địa phương tại KSQ.

Nhìn về tương lai

Định hướng lớn của thành phố là xây dựng Hội An trở thành Thành phố Sinh Thái – Văn Hóa – Du lịch với nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hóa được bảo tồn nguyên vẹn. Phố cổ vẫn giữ nguyên được nét cổ kính, các làng quê sinh thái yên bình, nhận thức con người về môi trường được nâng cao, sinh kế phát triển bền vững trên nền tảng của công tác bảo tồn những giá trị nổi trội của Hội An. Đây là một viễn cảnh không xa và để đạt được mục tiêu này, việc lựa chọn cách tiếp cận phù hợp, vận hành KSQ trên cơ sở phát huy nội lực và kêu gọi toàn xã hội cùng tham gia và thực hiện hiệu quả các nhóm giải pháp chiến lược:

(1) Chiến lược truyền thông, nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi.

Tiếp tục thực hiện chương trình truyền thông rộng khắp về giá trị, công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị của KSQ đến đông đảo người dân, du khách, đặc biệt là doanh nghiệp, những người có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc khai thác và sử dụng tài nguyên trong KSQ; Tăng cường áp dụng, thực thi Quy chế quản lý KSQ trên phạm vi tỉnh Quảng Nam; Xây dựng ý tưởng thiết lập Bảo tàng đa dạng sinh học và Trung tâm lưu trữ thông tin cho KSQ.

(2) Chiến lược đào tạo, nâng cao năng lực.

Đào tạo kỹ năng truyền thông, giao tiếp ứng xử cho các đối tượng là hướng dẫn viên, thuyết minh viên và cộng đồng làm dịch vụ du lịch để phục vụ cho mục tiêu chung là phát triển du lịch sinh thái dựa trên nền tảng bảo tồn; Tăng cường tổ chức các khóa tập huấn, các cuộc hội thảo về các cách tiếp cận phù hợp, hiệu quả đối với việc vận hành KSQ;

(3) Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng Khoa học công nghệ.

Nghiên cứu áp dụng, triển khai các kết quả đề tài, dự án khoa học công nghệ vào thực tế quản lý, bảo tồn và khai thác bền vững giá trị tài nguyên trong KSQ; Tiếp tục tìm nguồn đầu tư cho các dự án, đề tài khoa học trên các lĩnh vực ưu tiên như là: lượng hóa giá trị các hệ sinh thái, nghiên cứu sức tải môi trường phục vụ cho chiến lược phát triển du lịch sinh thái bền vững trong KSQ; Kiểm kê, đánh giá tài nguyên rừng nguyên sinh Cù Lao Chàm; Nghiên cứu qui hoạch quản lý sử dụng bền vững tài nguyên trong KSQ; Chương trình phát triển cacbon thấp; Nghiên cứu về tình trạng xói lở bãi biển rất nghiêm trọng tại Hội An.

(4) Chiến lược xây dựng luận cứ khoa học hỗ trợ cho công tác quản lý.

Các hệ sinh thái và tính đa dạng sinh học trong KSQ là rất nhạy cảm với sự thay đổi môi trường, các yếu tố ngoại cảnh và chúng có mối quan hệ rất mật thiết. Mọi sự thay đổi sẽ diễn ra theo nguyên lý kéo theo và có tác động toàn diện lên tất cả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc quản lý tài nguyên về thực chất chính là quản lý hành vi của con người gây nên sự thay đổi và có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái và quần thể sinh vật sống cùng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để xác định tính liên kết theo các qui luật tự nhiên và xây dựng nên các luận cứ khoa học là rất quan trọng phục vụ cho việc hoạch định các chính sách và định hướng lớn của thành phố Hội An.

(5) Chiến lược phát triển sinh kế bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nhiệm vụ phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu là vấn đề trọng tâm trong chiến lược của thành phố Hội An. Ngoài việc bảo tồn và phát huy tối đa giá trị của các làng nghề truyền thống, việc khai thác tài nguyên phục vụ sinh kế cần tính toán và qui hoạch rõ ràng nhằm đảm bảo cung cấp nguyên liệu đồng thời không làm phương hại đến các giá trị tài nguyên mà KSQ đang nỗ lực bảo tồn. Đồng thời, nhanh chóng thực hiện chương trình phát triển nhãn hiệu chứng nhận KSQ cho các sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi KSQ. Thông qua đó sẽ giúp khẳng định uy tín, nâng cao chất lượng, tăng giá trị thương hiệu KSQ, thu hút sự tham gia của lực lượng doanh nghiệp trong hoạt động KSQ, đồng thời phát triển kinh tế chất lượng trên nền tảng bảo tồn.

(6) Chiến lược giám sát, đánh giá tài nguyên.

Việc thường xuyên kiểm kê, đánh giá, giám sát tài nguyên, các giá trị nổi trội của KSQ là cơ sở, nền tảng của công tác bảo tồn. Thông qua đó, giúp các bên liên quan hiểu rõ về hiện trạng, các nguồn tác động để xây dựng các nhóm giải pháp và chương trình hành động cụ thể để bảo tồn và phát triển tài nguyên một cách bền vững.

Ngoài ra, các chiến lược quan trọng khác như: phát triển nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư, quản lý cơ sở dữ liệu của KSQ, đầu tư cơ sở hạ tầng và xây dựng cơ bản…vv cần đạt được sự đồng thuận, thực hiện có trách nhiệm của đại diện cơ quan nhà nước, nhà khoa khọc, doanh nghiệp và người dân địa phương để thực hiện thành công mục tiêu xuyên suốt của KSQ và thành phố Hội An là “Bảo tồn để phát triển và Phát triển đề bảo tồn”./.

Lê Ngọc Thảo