Hướng tới thống nhất xây dựng nội dung điều tra nghiên cứu biển trong hệ thống các Chương trình Điều tra Nghiên cứu biển Việt Nam

Mở đầu

Việt Nam là một quốc gia biển. Biển và đại dương là món quà quý tự nhiên mà loài người được thừa hưởng. Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử phát triển và dựng nước, sự nghiệp hướng ra biển, tiến ra biển đã được các triều đại phong kiến thực thi từ rất sớm để có được một vùng biển rộng lớn trải dài suốt từ Bắc đến Nam như ngày hôm nay. Trong điều kiện ra biển vô cùng khó khăn ông cha ta đã làm chủ được các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, các vùng đảo phía Nam như Phú Quốc, Côn Đảo và hơn 3000 hòn đảo khác trong vùng chủ quyền Việt Nam, mở rộng lãnh hải về phía đông và phía nam.

Ngay trong thời đại phong kiến dân tộc Việt Nam đã tìm đường ra biển, hướng tới các đảo hoang sơ, thiết lập ra các tuyến đường biển, các triều vua còn lập ra các đội quân ra đảo, thu thuế tầu thuyền buôn và đánh bắt hải sản. Có một điều thật lý thú là cũng vào các thời kỳ phong kiến ấy ở Trung Quốc lại là thời kỳ cấm mở mang ra biển.Từ nhu cầu cuộc sống, nhu cầu giao thương ông cha ta đã biết đến các vùng đảo cát vàng, hoang sơ về sau có tên gọi là Hoàng Sa, Trường Sa và cả hệ thống đảo sau này. Các triều đai phong kiến còn biết lợi dụng thủy triều để đánh thắng giặc ngoại xâm, sử sách vẫn còn ghi lại những chiến công vang dội cho muôn đời mai sau.

Nghĩ về công lao trời biển của Tổ tiên những người làm công tác nghiên cứu, khai thác và bảo vệ biển trong điều kiện hiện nay khi khoa học công nghệ thế giới phát triển, giao lưu mở rộng thì ít nhiều trong lòng không khỏi hổ thẹn. Chắc rằng nhiều người trong số chúng ta đã tự hỏi rằng sự nghiệp điều tra, nghiên cứu, làm chủ biển đã xứng tầm, ngang bằng với khu vực và ở mức nào của thế giới hôm nay.

Nhìn lại một chặng đường khá dài từ 1977 đến nay gần 40 năm thực hiện các Chương trình Điều tra Nghiên cứu về biển, Việt Nam đã có bước tiến gì về nghiên cứu khoa học biển bao hàm công tác điều tra cơ bản, khai thác, phát triển bền vững bảo vệ tài nguyên, môi trường biển đi cùng với các công trình nghiên cứu khoa học có giá trị phục vụ và được quốc tế xác nhận.

Tư duy thực hiện các Chương trình biển cứ mỗi một 5 năm theo các chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước có phát huy hết được tiềm năng nghiên cứu biển hay không, có tạo ra được bước đột phá hay không. Có thể có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nghiên cứu khoa học biển hiện nay ở Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến các kết quả chính của hệ thống các Chương trình biển quy mô quốc gia và thử bàn luận về sự cần thiết phải tổ chức điều tra khảo sát tổng hợp thống nhất trong hệ thống các chương trình nghiên cứu biển cấp quốc gia.

Quan điểm của chúng tôi là các chương trình nghiên cứu biển phải gắn liền với chương trình điều tra bằng tầu nghiên cứu biển quy mô đồng bộ không gian và thời gian. Vùng không gian có quy mô cửa sông lớn gắn liền với vùng biển thoáng, vùng thềm lục địa  Việt Nam và Biển Đông, các vùng biển đặc thù về cấu trúc địa  chất…Từ quan điểm đó rõ ràng là không thể chia nhỏ các nội dung điều tra khảo sát để rồi kinh phí tản mạn, các phương thức thu đo không đồng bộ.

Thông qua kết quả các chương trình điều tra nghiên cứu biển từ thời thuộc Pháp trước 1945, các chương trình hợp tác quốc tế thực hiện trên vùng biển Việt Nam, vùng Biển Đông  qua các thời kỳ để nhìn nhận lại công tác tổ chức điều tra khảo sát của hệ thống  8 Chương trình biển Việt Nam giai đoạn 1977 -2015.

1. Các chương trình điều tra tổng hợp biển thời kỳ thuộc Pháp theo các mặt cắt chuẩn quốc tế  

Thực sự công việc triển khai quan trắc và điều tra nghiên cứu biển được bắt đầu từ thời kỳ thuộc Pháp với sự ra đời của Đài Quan trắc Khí tượng Vũng Tầu 1897 theo Quyết định của Toàn quyền Đông dương Paul Doumer sau kết quả Hội đồng Khoa học do Đại tá Hải quân Dou Zans, Tư lệnh Hạm đội Nam Kỳ làm chủ tịch theo [3]. Cũng theo tài liệu [3] ngành Khí tượng và Địa chất  Đông dương được hình thành từ Ban Kinh tế thuộc Phủ Toàn Quyền Đông dương do Tiến sỹ khoa học Capuytx Capus là Trưởng ban năm 1898. Tuy nhiên ở Việt Nam sự ra đời  Đài Thiên Văn Vật lý Địa cầu Phủ Liễn (1922) và viện Hải dương học Nha Trang (9/1922) gắn liền với mạng lưới quan trắc Khí tượng, Vật lý Địa cầu và khởi đầu cho công tác điều tra cơ  bản về biển Việt Nam. Mạng lưới quan trắc Khí tượng Hải văn trên toàn xứ Đông Dương được bắt đầu từ theo quyết định toàn quyền Paul Doumer.  Sự ra đời của viện Hải dương học Nha Trang gắn liền với các chuyến khảo sát biển bằng tầu nghiên cứu biển của Pháp. Từ khi thành lập cho đến 1945, Viện Hải dương học Nha Trang sử dụng tầu nghiên cứu biển De Lanessan và các tầu khác của hải quân Pháp thực hiện đo đạc, quan trắc theo các mặt cắt cố định với số lượng trạm phân bố trong vịnh Bắc Bộ, thềm lục địa Trung Bộ, Nam Bộ Việt Nam, vùng biển thuộc Căm Puchia, Thái Lan và vùng biển đông và nam Biển Đông. Các hạng mục đo đạc, quan trắc trong hệ thống mặt cắt được xây dựng từ tầng mặt tói tầng đáy là: Các yếu tố khí tượng tầng mặt, các yếu tố hóa lý nước từ tầng mặt tới tầng đáy, địa hình, địa chất, sinh vật nổi, sinh vật đáy và đánh bắt cá thí nghiệm [2].

Các kết quả đo đạc về dòng chảy ven bờ Việt Nam, và lưu lượng nước qua các eo biển lớn của Biển Đông với vùng nước Thái Bình Dương đã hình thành được bản đồ hoàn lưu nước Biển Đông và có được những kết luận quan trọng về hệ thống dòng chảy Bắc Nam đo ven bờ Việt Nam. Các quan trắc thực nghiệm về vật thể trôi của Wirtky (1930) thực hiện trên vùng Biển Đông đã đưa ra bản đồ dòng trôi tầng mặt trên toàn vùng Biển Đông. Giá trị của các kết quả quan trắc này hiện nay vẫn còn nguyên giá trị tham khảo trong nhiều công trình nghiên cứu.

Công việc đo đạc, khảo sát tổng hợp bằng tầu nghiên cứu biển theo các mặt cắt cố định đã được thực hiện bởi khá nhiều các nhà Hải dương học nổi tiếng như Krempf A, E Saurin… Nguồn số liệu thu được trong giai đoạn này hiện vẫn được lưu trữ và khai thác có hiệu quả trong rất nhiều các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng để có được các kết quả khoa học có giá trị cần phải dựa trên các bộ số liệu quan trắc có mức đảm bảo cao về chất lượng quan trắc và độ dài, tính liên tục của bộ số liệu đó. Có thể nói trước giai đoạn 1945 với sự có mặt của tầu nghiên cứu biển Pháp cùng với hệ thống mặt cắt chuẩn đã để lại những kết luận khoa học rất có giá trị về hoàn lưu nước, sinh vật và địa chất vùng Biển Đông và lân cận.

2. Các chương trình điều tra tổng hợp biển ở Miền Bắc và Miền Nam trước 1975

Các chương trình điều tra tổng hợp biển ở Miền Bắc

Do có điều kiện hợp tác nghiên cứu biển giữa Việt Nam với Trung Quốc và Liên Xô trước đây các chương trình điều tra tổng hợp Vịnh Bắc Bộ đã được tổ chức thực hiện khá bài bản theo quy trình chuẩn phù hợp quốc tế. Chương trình điều tra tổng hợp Vịnh Bắc Bộ 1959 -1962, Chương trình điều tra nguồn lợi cá đáy vịnh Bắc Bộ. Hai chương trình này đều do UBKHNN (Bộ Khoa học và Công nghệ ngày nay) chủ trì. Nội dung điều tra cơ bản tổng hợp bao gồm các yếu tố Khí tượng, Hải dương học với các lĩnh vực thủy hóa, địa chất biển, sinh vật nổi, sinh vật đáy, trứng cá… trên phạm vi đồng bộ toàn Vịnh Bắc Bộ mô tả rất kỹ phân bố mùa các yếu tố.  Sản phẩm của các chương trình này là bộ Atlas vịnh Bắc Bộ tỷ lệ 1:200.000 mô tả các yếu tố thủy hóa động lực, địa chất biển và bộ sưu tập chuẩn sinh vật vịnh Bắc Bộ. Các kết quả điều tra khảo sát theo các mặt cắt đồng bộ không gian và thời gian đã để lại giá trị khoa học cho đến ngày nay.

Các chương trình hợp tác điều tra của các Bộ chuyên ngành với Liên Xô trước đây

Trong 2 năm 1960 -1961 Tổng cục Thủy sản Việt Nam kết hợp với Viện Hải dương học nghề cá Thái Bình Dương (TINRO) thực hiện 5 chuyến khảo sát theo Hiệp định ký giữa 2 Chính phủ Việt Nam và Liên Xô trước đây. Kết quả hợp tác điều tra này ngoài việc đánh giá trữ lượng và khả năng khai thác cá vịnh Bắc Bộ còn đánh giá được mức độ biến động mùa của các yếu tố thủy hóa, động lực biển từ tầng mặt tới tầng đáy vịnh Bắc Bộ. Giá trị điều tra khảo sát đồng bộ theo không gian và thời gian theo các mặt cắt chuẩn đã đáp ứng được mục tiêu, sản phẩm của một chương trình khoa học.

Các chương trình điều tra biển ven bờ của các chuyên ngành

Có hai yếu tố cần được nhấn mạnh một là do kết quả hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc các quy chuẩn, quy phạm điều tra khảo sát được tuân thủ nghiêm ngặt, các thiết bị chủ yếu là cơ học. Yếu tố thứ hai là cán bộ tham gia khảo sát, nghiên cứu với số lượng chưa nhiều song được đào tạo cơ bản về ngành nghề, đồng lương ổn định, tiêu cực xã hội rất ít. Các bộ số liệu được chỉnh lý và công bố rộng rãi hầu như không có việc mua bán số liệu.

Thời kỳ này phải kể đến các đơn vị nghiên cứu như Viện Nghiên cứu biển Hải Phòng, Nha Khí tượng với hoạt động của hệ thống trạm quan trắc cố định ven bờ, hải đảo và Phòng Hải văn Nghiên cứu, Khảo sát biển. Viện Ngiên cứu biển với các chương trình điều tra địa chất địa hình ven bờ vịnh Bắc Bộ (1976-1969), điều tra tổng hợp ven bờ Quảng Ninh – Hải Phòng (1971-1972) với các yếu tố Khí tượng Thủy văn, Địa chất, Thủy hóa, Sinh vật. Chương trình điều tra nguồn lợi và (1965-1975)…

Các kết quả điều tra khảo sát trong thời kỳ này hiện vẫn đang được sử dụng khá rộng rãi. Các kết quả nghiên cứu này còn là nguồn số liệu quan trọng để phát triển nhiều luận án tiến sỹ khoa học của nhiều chuyên ngành được bảo vệ ở Liên Xô, Ba Lan và một số nước trong cộng đồng XHCN thời kỳ này.

Các chương trình điều tra nghiên cứu biển ở Miền Nam trước 1975

Thời kỳ trước 1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa là thành viên chính thức của Tổ chức Hải dương học Liên Chính phủ IOC và Viện Hải dương học Đông Dương sau ngày thống nhất đất nước đổi tên là Viện Hải dương học Nha Trang là cơ quan chuyên môn đại diện. Sự kết nối quốc tế điều tra nghiên cứu Hải dương học vùng biển phía Nam đã được hình thành khá sớm.

Các chương trình điều tra khảo sát tổng hợp và nghiên cứu biển khu vực phải kể đến là Chương trình NAGA (1959-1961), CSK (1965-1967), các chương trình điều tra khảo sát nghiên cứu Hải hương học của Hải quân Hoa Kỳ, chương trình khảo sát nghề cá viễn duyên Nam Việt Nam (1968-1971) với sự tham gia của nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế. Phạm vi điều tra khảo sát và nghiên cứu Hải dương học của các chương trình này trải rộng Nam Biển Đông, Vịnh Thái Lan. Sau mỗi chương trình điều tra khảo sát đều có các kết qủa nghiên cứu được công bố.

Các chuyến khảo sát, các trạm quan trắc khí tượng  Hoàng Sa, Trường Sa (1973), vùng biển Cam Ranh, vùng biển Côn Đảo (1965-1966) đã để lại những dấu ấn quản lý nhà nước Việt Nam tại đây.

Có thể nói trước 1975 các chương trình điều tra nghiên cứu biển ở vùng biển phía Bắc cũng như ở vùng biển phía Nam được thực hiện với sự tham gia của quốc tế. Ở Miền Bắc với sự tham gia của Trung Quốc, Liên Xô cũ, ở Miền Nam là các chương trình quốc tế, khu vực. Quy mô điều tra khảo sát đồng bộ khá rộng, toàn bộ vịnh Bắc Bộ và khu vực biển Nam Biển Đông, vịnh Thái Lan. Các chương trình điều tra khảo sát này là nguồn số liệu của các bài báo, công trình kèm theo có giá trị khoa học cao, hiện nay vẫn được tham khảo rộng rãi.

3. Hệ thống các chương trình điều tra nghiên cứu biển sau 1975

Sau thời kỳ thống nhất hai miền Nam Bắc 1975, từ năm 1977 đến nay Chương trình Điều tra nghiên cứu biển cấp Nhà nước đã trải qua gần 40 năm. 40 năm qua với 8 Chương trình có các tên gọi, mục tiêu, nội dung và sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú, gia tăng lực lượng tham gia hoạt động điều tra nghiên cứu biển. Chắc chắn Ban Chủ nhiệm Chương trình KC.09/11 -15 sẽ có những nghiên cứu đánh giá sâu sắc hơn về những thành quả cũng như các vấn đề cần cần xem xét về tổ chức của các chương trình này trong dịp tổng kết.

Ngoài hệ thống chương trình biển mà chúng tôi đề cập ở đây là các chương trình thuộc quản lý trực tiếp của UBKHKT NN trước đây nay là BKHCN còn có các chương trình biển cũng là cấp Nhà nướckhác. Các chương trình này do các Bộ khác quản lý  như Chương trình nghiên cứu biển của Tổng cục Khí tượng Thủy văn trước đây, Chương trình Biển Đông thuộc Bộ Ngoại giao và hiện nay là Đề án 47 về biển do Bộ Tài nguyên và Môi trường trực tiếp quản lý.

Dưới đây là tóm lược tên gọi của 8 Chương trình biển giai đoạn 1977-2015 do Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước trước đây và Bộ Khoa học và Công nghệ hiện nay trực tiếp quản lý. Do khuôn khổ của bài viết chúng tôi không trích dẫn ra các mục tiêu, nội dung cũng như sản phẩm của từng Chương trình trong mỗi giai đoạn khác nhau.

  • Chương trình Điều tra tổng hợp vùng biển ven bờ Thuận Hải- Minh Hải giai đoạn 1977-1980.
  • Chương trình Điều tra tổng hợp biển và thềm lục địa Việt Nam, giai đoạn 1981-1985. Mã số 48.06.
  • Chương trình Điều tra Nghiên cứu tổng hợp điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và một số vấn đề kinh tế xã hội biển phục vụ phát triển kinh tế biển, giai đoạn 1986-1990. Mã số 48B.
  • Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước về Điều tra nghiên cứu biển, giai đoạn 1991-1995. Mã số KT 03.
  • Chương trình Điều tra nghiên cứu biển, giai đoạn 1996-2000. Mã số KHCN 06.
  • Chương trình Điều tra cơ bản và Nghiên cứu ứng dụng công nghệ biển, giai đoạn 2001-2005. Mã số KC.09.
  • Chương trình Khoa học và Công nghệ biển phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội, giai đoạn 2006-2010. Mã số KC.09/06-10.
  • Chương trình Nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ phát triển quản lý biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển, giai đoạn 2011-2015. Mã số KC.09/11-15.

Một số nhận xét chung về hệ thống 8 Chương trình thực hiện từ 1977 -2015

Về mặt quản lý vĩ mô hệ thống 8 Chương trình trên đây đã bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước theo các chu kỳ 5 năm.

Các Chương trình này đã thu hút được ngày càng đông đảo lực lượng tham gia với các lĩnh vực liên quan đến biển ngày một phong phú. Các vấn đề kinh tế, xã hội và quản lý biển bảo vệ biển đã được cập nhật kịp thời. Các thông tin về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, môi trường vùng biển Việt Nam đã kịp thời phục vụ cho các hoạt động trên biển.

Tuy nhiên trong giới hạn của bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến khía cạnh điều tra nghiên cứu biển của một chương trình khoa học biển theo các thông lệ quốc tế.

Hầu hết 8 Chương trình đều đề cập đến điều tra cơ bản, điều tra nghiên cứu biển. Tính chất hướng về điều tra khảo sát, điều tra nghiên cứu là hoàn toàn đúng đắn thể hiện đúng tính chất đặc thù của khoa học Trái Đất nói chung và khoa học biển nói riêng là phải dựa vào số liệu điều tra cơ bản, điều tra khảo sát chuyên đề, điều tra khảo sát định kỳ..

Phạm vi không gian của các Chương trình chủ yếu là ven bờ trải dài từ Bắc đến Nam bao gồm bờ tây vịnh Bắc Bộ, vịnh Thái Lan vùng lãnh hải Việt Nam, vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, tuy nhiên chưa bao quát đầy đủ đồng bộ vùng thềm lục địa cũng như vùng biển Việt Nam.

Hiện tại các nghiên cứu ở vùng thềm lục địa cũng như vùng trũng Biển Đông phải dựa vào số liệu của các nhà thầu khoan dầu khí và số liệu nước ngoài mà các đề tài có được.

Các Chương trình đều chưa hình thành được mạng lưới điều tra khảo sát chung của Chương trình, tính chất điều tra khảo sát là do các đề tài tự đề xuất cho phù hợp với mục tiêu nội dung nghiên cứu của từng đề tài trong từng Chương trình. Điều này không phù hợp với tính chất chung của một Chương trình điều tra nghiên cứu biển theo nghĩa khoa học thuần túy. Việc điều tra chuyên đề theo lĩnh vực đưa về các đề tài đã làm khó cho công tác kiểm soát, rất có thể gây lãng phí vì mỗi đề tài chi phí cho công tác khảo sát này lên tới 30-45% tổng số kinh phí của mỗi đề tài.

Các Chương trình đều kèm theo hệ thống các đề tài. Các đề tài đều có báo cáo tổng kết và nộp lưu trữ vào Cục Thông tin của Bộ KHCN. Tuy nhiên các ấn phẩm của mỗi Chương trình để lại báo cáo chung không thống nhất qua từng giai đoạn. Đặc biệt thiếu các bài báo đăng tải có giá trị khoa học quốc tế cũng như các giá trị khoa học ghi dấu ấn của từng Chương trình. Việc thiếu thông tin trao đổi chính thức đã dẫn đến hệ quả là có không ít đề tài sử dụng các kết quả điều tra khảo sát nghiên cứu trước đó không minh bạch. Nhiều đề tài đã thực hiện không tuyên truyền phổ biến được gây lãng phí cho Nhà nước.

Do thiếu vắng vai trò quy hoạch chung về điều tra khảo sát của hệ thống 8 Chương trình dẫn đến không xem xét đến vai trò của hệ thống tàu điều tra khảo sát cũng như thiết bị quan trắc đo đạc được sử dụng trong mỗi Chương trình. Đây cũng là một vấn đề quan trọng mấu chốt trong điều tra nghiên cứu biển Việt Nam.

Do khó khăn về quản lý chung cũng như quan điểm chủ quyền bảo vệ lãnh hải, các Chương trình biển thiếu hẳn yếu tố hợp tác quốc tế về điều tra nghiên cứu biển. Điều này dẫn đến hệ lụy là kết quả nghiên cứu Hải dương học của Việt Nam rất khó đăng tải trong các tạp chí quốc tế có uy tín. Mặt khác vì Việt Nam thiếu tàu nghiên cứu biển đạt chuẩn quốc tế vì vậy các hợp tác quốc tế rất khó thành công do rất khó khăn trong thủ tục hành chính và hạn chế kinh phí thuê tầu nước ngoài.

Thông tin kết quả nghiên cứu từ các Chương trình không được công bố rộng rãi. Vì vậy, các nhà khoa học, nhà quản lý cũng như các chương trình sau khó khăn trong việc tiếp cận, cập nhật thông tin, sử dụng các kết quả đã có.

Kết luận

Sự nghiệp hướng ra biển, tiến ra biển của Việt Nam đã được triển khai rất sớm bằng chứng là chúng ta đã làm chủ các đảo xa bờ như quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, các đảo phía Nam như đảo Phú Quốc, Thổ Chu, Côn Đảo… Việt Nam có đường  bờ biển 3260km trải dài suốt từ bắc đến nam và hơn 3000 hòn đảo, quần đảo xác lập chủ quyền lãnh hải mà Tổ Tiên đã dày công để lại cho Viết Nam hôm nay.

Hệ thống quản lý Nhà nước về biển được xác lập rất sớm từ thời thuộc Pháp với sự ra đời của mạng lưới trạm quan trắc Khí tượng, Hải văn, Địa chất, Địa chấn thuộc lãnh hải Việt Nam. Hệ thống mạng lưới điều tra nghiên cứu biển ra đời sớm nhất ở Đông Dương (1897) và sự ra đời của Đài Vật lý Địa cầu Phủ Liễn, Viện Hải dương học Đông dương đặt ở Nha Trang (1922).

Trước giai đoạn 1975 ở Miền Bắc cũng như ở Miền Nam mặc dù cũng còn có những hạn chế do chiến tranh, vùng biển bị chia cắt các Chương trình điều tra nghiên cứu biển đã được tổ chức khá sát với mục tiêu của một chương trình điều tra nghiên cứu biển quy mô đồng bộ về không gian và thời gian. Các sản phẩm khoa học kèm theo các Chương trình này hiện tại vẫn còn giá trị tham khảo cao.

Các Chương trình điều tra nghiên cứu biển giai đoạn sau 1975 khi đất nước được thống nhất đã kịp thời đồng hành cùng các chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Thông qua hệ thống 8 Chương trình Điều tra nghiên cứu biển từ 1977 đến nay lực lượng tham gia nghiên cứu biển của Việt Nam đã tăng đáng kể, chất lượng nguồn lực được đào tạo ngày một được tăng cường.

Từ các kết quả của 8 Chương trình điều tra nghiên cứu biển bài viết này tập trung vào quan điểm điều tra nghiên cứu của một Chương trình biển cấp Quốc gia. Trong đó từng bước phải đi vào quy định chuẩn quốc tế là Chương trình phải tổ chức nội dung điều tra khảo sát tổng hợp hoặc chuyên đề theo mục tiêu của Chương trình với các phương tiện thu đo xác định chuẩn quốc tế. Các nội dung nghiên cứu chuyên lĩnh cũng như  điều tra khảo sát chuyên đề của các đề tài trong Chương trình nên quy về các Bộ, Ngành.

Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật trước đây và Bộ KHCN ngày nay là Cơ quan quản lý trực triếp các Chương trình biển Quốc gia cần được thể hiện rõ vai trò điều tra khảo sát nghiên cứu trong mỗi Chương trình. Mạng lưới điều tra khảo sát tổng hợp theo các yếu tố các lĩnh vực nghiên cứu tùy thuộc vào mục tiêu, nội dung nghiên cứu của mỗi Chương trình. Điều tra khảo sát nghiên cứu trong các Chương trình không làm thay các điều tra khảo sát cơ bản của các cơ quan có chức năng riêng như mạng lưới quan trắc thường kỳ ven bờ, đảo, khảo sát định kỳ chuyên đề theo các lĩnh vực quản lý liên quan đến biển. Các kết quả điều tra cơ bản sẽ là nguồn số liệu tham khảo chung cho các Chương trình điều tra nghiên cứu biển khác.

Không thể xem kết quả các Chương trình là sự tổng hợp từ các đề tài riêng lẻ. Sau mỗi Chương trình phải được công bố kết quả điều tra khảo sát cùng với các kết quả nghiên cứu khác thể hiện trên các tạp chí trong nước và quốc tế.

Các Chương trình Điều tra nghiên cứu biển không nhất thiết phải theo nhiệm kỳ 5 năm như các chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Về nội dung này chúng tôi đề nghị Bộ KHCN xem xét.

Đề nghị các cơ quan quản lý sớm có những quy định cụ thể để các chương trình khác liên quan đến biển như Chương trình Biển Đông, Đề án 47 sớm có công bố các kết quả điều tra nghiên cứu trên các phương tiện chung của Nhà nước. Trên cơ sở đó hệ thống Chương trình điều tra nghiên cứu biển thuộc Bộ KHCN cũng như các nhà khoa học Hải dương học Việt Nam có đủ tư liệu thông tin kiểm kê và định hướng chung cho sự nghiệp làm chủ biển Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

1. Các Quyết định của Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Bộ Khoa học và Công nghệ về tên, mục tiêu, nội dung 8 Chương trình biển từ 1977 – 2015.

2. Đặng Ngọc Thanh (Chủ biên), 2001. Đánh giá tổng hợp kết quả thực hiện các chương trình điều tra nghiên cứu biển cấp Nhà nước 1977 -2000. Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Lịch sử Khí tượng Thủy văn Việt Nam. Phần biên niên Cổ – Trung – Cận Đại. Tổng cục KTTV, 1995.

Nguồn: BCN KC.09/11-15